Sự vận chuyển điện tử trong cơ thể

      Một số nhà khoa học ước tính rằng mỗi ngày một người trung bình tổng hợp nên các phân tử ATP bằng trọng lượng của bản thân họ và sử dụng chúng cho các quá trình trao đổi chất, đáp ứng, sinh trưởng và sinh sản tế bào. Sự quay vòng ATP ở các sinh vật nhân sơ là tương đối đa dạng. Sự sản sinh ATP quan trọng nhất không xảy ra nhờ đường phân hoặc chu trình Krebs, mà ngược lại thống qua sự giải phóng năng lượng từng bước từ một loạt các phản ứng oxi hoá khử giữa các phân tử được gọi là chuỗi vận chuyển điện tử.

        Một chuỗi vận chuyển điện tử bao gồm một loạt các phân tử chất mang được gắn vào màng, chúng chuyển điện tử từ chất nhận này đến chất nhận khác và cuối cụng tới một chất nhận điện tử cuối cùng. Thông thường, điện tử bắt nguồn từ sự phân giải một phân tử hữu cơ như glucoza, tuy nhiên các sinh vật có tên là cáo sinh vật hoá dưỡng vô cơ lại nhận được điện tử từ các nguồn vở cơ như Hj, NOj’ hoặc Fe2*.

sản sinh ATP


      Dù trong trường hợp nào thì điện tử cũng được chuyển hóa một chuỗi giống như vận chuyển những cái xô trong một đội cứu hỏa tới người nhận cuối cùng. Cũng giống như với đội cứu hoả, bước chuyển điện tử cuối cùng là không thuận nghịch. Năng lượng từ các diện tử sĩ được sử dụng để vận chuyển (bơm) một cách chủ động các proton (H+) qua màng, qua đó thiết lập nên một gradien proton nhàm phát sinh ATP nhờ một quá trình được gọi là lõi thẩm.

      Các chuỗi vận chuyển điện tử nằm trên màng trong ti thể (phần răng lược) ở các sinh vật nhân chuẩn và trên màng tế bào chất ở các sinh vật nhân sơ. Mặc dù NADH và FADH-, cho đi các điện tử dưới dạng các nguyên tử H, (diện tử và proton), song nhiều phân tử chất mang chỉ chuyến các điện tử dọc theo chuỗi. Có bốn nhóm phân tử chất mang trong các chuỗi vận chuyển điện tử.




Từ khóa tìm kiếm nhiều: quá trình quang hợp, len men

0 nhận xét:

Đăng nhận xét