Giai đoạn đương thời của vi sinh vật học

          Sự tăng không ngừng các nghiên cứu về vi sinh vật học và các kiến thức khoa học vào những năm 1800 đã mở ra những lĩnh vực khoa học mới như các bộ môn khoa học môi trường, miễn dịch học, dịch tễ học, hóa điều trị vả kỹ thuật di truyền.         Vi sinh vật giữ một vai trò quan trọng trong việc phát triển các bộ môn này vì chúng tương đối dễ nuôi, chiếm ít chỗ và có thể nhận được số lượng hàng nghìn ty tế bào. Nhiều kiến thức về vi sinh vật cũng có thể được áp dụng cho các sinh vật khác, kể cả con người.
          Các phản ứng hóa hoc cơ sở đối với sự sống là gì?
         Hóa sinh học là sự nghiên cứu về trao đổi chất – tức là về các phản ứng hóa học xảy ra trong các cơ thể sống. Hóa sinh học được bắt đầu bằng các công trình của Pasteur vé lân men nhờ nấm men và vi khuẩn, và bằng phát hiện của Buchner về các enzim trong dịch chiết nấm men, song vào đầu những năm 1900 nhiều nhà khoa học vẫn nghĩ rằng các phản ứng trao đổi chất của vi sinh vật ít có liên quan tới trao đổi chất ồ động vật và thực vật.

vi sinh vật học

         Ngược lại, nhà vi sinh vật học Albert Kluyver (1888-1956) vả sinh viên của ông C. B. van Niel (1897-1985) đã đưa ra quan điểm cho rằng các phản ứng hóa sinh cơ sử diễn ra ở mọi sinh vật, rằng các phản ứng này chỉ có số lượng tương đối ít và đặc điểm chủ yếu của chúng là sự chuyển hiđro. Chấp nhận quan điểm này, các nhà khoa học có thể sử dụng vi sinh vật làm các hệ thông mổ hình để trả lời các câu hởi về trao ‘đổi chất ở mọi sinh vật. Các nghiên cứu trong thế kỷ 20 đã nêu rõ giá trị của phương pháp này đối với việc nắm bắt các quá trình trao đổi chất cơ sở, song các nhà khoa học cũng chứng minh được sự đa dạng kỳ diệu của trao đổi chất. Các nghiên cứu hóa sinh cơ sở đã thu được nhiều ứng dụng thực tiễn trong đó có :

– Việc thiết kế các chất diệt cỏ và trừ dịch có tác dụng đặc hiệu và không gây hậu quả có hại lâu dài đối với môi trường.
– Việc chẩn đoán các bệnh và khảo sát sự đáp ứng của bệnh nhân đối với sư điểu trị. Chắng hạn các bác sĩ đã khảo sát bệnh gan theo kinh nghiệm bằng cách xác định nồng độ các enzim và các sản phẩm trao đổi chất của gan có trong máu.
– Việc điều trị các bệnh về trao đổi chất. Một ví dụ là sự điều trị bệnh phenylketo niệu, một bệnh bắt nguồn từ sự bất lực đôi với việc chuyển hóa amino axit phenylalanin, bằng cách loại bò các thức ăn chứa phenylalanin ra khởi khẩu phần thức ăn.
– Việc thiết kế các loại thuốc điều trị bệnh bạch cầu, bệnh gut, các bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn, bệnh sốt rét, bệnh herpeS/ bệnh AIDS, bệnh hen, và các cơn đau tim.


Đọc thêm tại:

0 nhận xét:

Đăng nhận xét