Gen hoạt động như thế nào?

           Gen hoạt động như thế nào?
          Khi làm việc với vi khuẩn Streptococcus pneumoniae, Oswalđ Avery (1877-1955), Cohn MacLeod (1909-1972), and Maclyn McCarty (1911- ) đã xác định được rằng gen nằm trên các phân tử ADN. Vào năm 1958, George Beadie (1903-1989) and Edwarđ Tatum (1909-1975) khi làm việc với loài nấm mốc mốc trên bánh mì          Neurospora crassa đã kết luận rằng hoạt tính của gen có liên quan tới chức năng của protein đặc hiệu do gen này mã hóa. Các nhà nghiên cứu khác, khi cũng làm việc với vi sinh vật, đã xác định được cách thức chính xác mà qua đó thông tin di truyền được dịch thành protein, tốc độ và cơ chế của đột biến di truyền cũng như các phương thức mà tế bào sử dụng để kiêm soát sự biểu hiện của gen.
         Trong suốt 40 năm qua, những tiến bộ trong ngành di truyền học vi sinh vật đã được phát triển thảnh một số bộ môn mới, chúng nằm trong số nhữmg lĩnh vực nghiên cứu khoa học đang được phát triển nhanh nhất hiện nay, trong đó có sinh học phân tử, kỹ thuật AND tái tổ hợp và liệu pháp gen.

kỹ thuật AND

          Sinh học phân tử
          Sinh học phân tử liên kết các bộ môn hóa sinh học, sinh học tế bào và di truyền học để giải thích chức năng của tế bào ở mức độ phân tử. Các nhà sinh học phân tử đặc biệt chú ý đến sự xác định trình tự genom. Bằng cách sử dụng các kỹ thuật đã được hoàn thiện trên vi sinh vật, các nhà sinh học phân tử đã xác định được trình tự genom của nhiều sinh vật kể cả con người và một số tác nhân gây bệnh của người. Người ta hy vọng ràng một sự hiểu biết hoàn hảo về genom của các sinh vật sẽ đưa đến nhiều phương thức ứng dụng nhẳm hạn chê bệnh tật, sửa chữa các khiếm khuyết về đi truyền và tăng sản lượng nông nghiệp.
         Vào năm 1965, nhà bác học Mỹ được trao giải thương Nobel Linus Pauling (1901-1994) đã cho rằng trình tự gen có thể cung cấp một phương tiện để hiểu được những mối tương quan và quá trình tiến hóa, thiết lập được các nhóm phân loại có khả nâng phản ánh chính xác hơn những mối quan hệ nảy, và xác định được sự tồn tại của các vi sinh vật chưa bao giờ nuôi cấy được trong một phòng thí nghiệm nào.
          Hai ví dụ minh họa những ứng dụng kiểu này của các dẫn liệu về trình tự gen là :
– Vào những năm 1970, Carl Woese (1928-) đã phát hiện thấy những sự khác biệt cơ bản trong trình tự axit nucleic giữa các cơ thể sinh vật, những sự khác biệt này hiển nhiên buộc các tế bào phải được xếp vào một trong ba nhóm chính – vi khuẩn, vi khuẩn cổ, hoặc sinh vật nhân chuẩn – chứ không phải chỉ thuộc hai nhóm (sinh vật nhân chuẩn và sinh vật nhân sơ) như trước đây vẫn nghĩ.
– Vào năm 1990, các nhà khoa học đã chỉ ra rằng bệnh sốt do mèo cào là đo một loài vi khuẩn chưa từng được nuôi cây gây ra. Vi khuẩn này được phát hiện khi người ta nhận ra trình tự một đoạn axit ribonucleic của nó khác với tất cả các trình tự axit ribonucleic khác đã từng biết.


Đọc thêm tại:

0 nhận xét:

Đăng nhận xét