Nền tế bào chất
Nền tế bào chất là phần vật chất nằm giữa màng sinh chất và thể nhân. Nền tế bào chất chứa chủ yếu là nước (khoảng 70% sinh khối của vi khuẩn là nước). Nó chứa rất nhiều riboxom và có tổ chức cao.
Các protein đặc thù nằm ở những vị trí đặc biệt như ở cực của tế bào và ở nơi mà tế bào vi khuẩn sẽ phân chia. Như vậy mặc dù vi khuẩn thiếu một bộ khung xương tế bào thật sự, song chúng vẫn có một hệ thống protein tương tự khung xương trong nền tế bào chất của chúng.
Màng sinh chất và mọi thứ nằm trong đó được gọi là nguyên sinh chất; do vậy màng tế bào chất là phần chủ yếu của nguyên sinh chất.
Các protein đặc thù nằm ở những vị trí đặc biệt như ở cực của tế bào và ở nơi mà tế bào vi khuẩn sẽ phân chia. Như vậy mặc dù vi khuẩn thiếu một bộ khung xương tế bào thật sự, song chúng vẫn có một hệ thống protein tương tự khung xương trong nền tế bào chất của chúng.
Màng sinh chất và mọi thứ nằm trong đó được gọi là nguyên sinh chất; do vậy màng tế bào chất là phần chủ yếu của nguyên sinh chất.
Các thể vùi
Hàng loạt các thể vùi, tức là các hạt nguyên liệu hữu cơ hoặc vô cơ thươfng được thấy rõ dưới kính hiển vi quang học, có mặt trong nền tế bào chất.
Các thể vùi này thưởng được sử dụng cho việc dự trữ (các hợp chất cacbon, các chất vô cơ, năng lượng) và cũng đô làm giảm áp suất thẩm thấu băng cách trói buộc các phân tử lại dưới dạng hạt.
Một số thể vùi không được giới hạn bởi màng và nằm tự do trong tế bào chất – ví dụ, các hạt poliphotphat, các hạt xianophixin và một sô hạt glicogen.
Các thể vùi này thưởng được sử dụng cho việc dự trữ (các hợp chất cacbon, các chất vô cơ, năng lượng) và cũng đô làm giảm áp suất thẩm thấu băng cách trói buộc các phân tử lại dưới dạng hạt.
Một số thể vùi không được giới hạn bởi màng và nằm tự do trong tế bào chất – ví dụ, các hạt poliphotphat, các hạt xianophixin và một sô hạt glicogen.
Các thể vùi khác được bao bọc bởi một màng dày khoảng 2-4 nm, màng này chí gồm một lớp và không phải là một màng kép điển hình.
Ví dụ về các thể vùi được bao bọc bởi màng là các hạt PHB (axit poli iđroxybutyrat), một số hạt glicogen và lưu huỳnh, các cacboxyxom và các không bào khí.
Màng của các thể vùi khác nhau về thành phần. Một số là protein về bản chất, trong khi số khác lại chứa lipit. Vì rằng các thể vùi được sử dụng cho việc dự trữ, cho nên số lượng của chúng thay đổi tùy theo tình trạng dinh dưỡng của tế bào. Ví dụ các hạt poliphotphat sẽ biên mất trong những môi trưởng nước ngọt nghèo photphat.
Sau đây sẽ là sự mô tả ngắn về một vài thể vùi quan trọng.
Glicogen được phân bố khá đồng đều khắp nền tế bào chất dưới dạng các hạt nhỏ (đường kính từ 20 đêh 100 nm) và thường chỉ có thể nhìn thấy được dưới kính hiển vi điện tử. Nếu tế bào chứa nhiều glicogen thì việc nhuộm với dung dich iot sẽ biến chứng thành màu nâu đỏ. Các thể vùi glicogen và PHB là những nguồn dự trữ cacbon cung cấp nguyên liệu cho năng lượng và sinh tổng hợp. Nhiều vi khuẩn cũng dự trữ cacbon dưới dạng các giọt lipit.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét